Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

TRUYỆN NGẮN



NỘI DUNG MỘT CÂU CHUYỆN CŨ

                                                                                 


      Từ ngày gia đình ông về định cư ở vùng đất rẫy núi xa xôi này. Xóm làng hình như ít ai muốn qua lại với ông, có lẽ họ còn sợ sợ một điều gì, vì ông từng là cán bộ cao cấp ở huyện. Và có thể họ cũng chán nghe ông ta cứ mãi uất ức thở than bào chữa rằng, cái cô nhân viên thuộc ban Kế Hoạch Hóa Gia Đình bị ông làm sình bụng là do ông bị gài bẫy. Mà chắc gì cái bụng cô ta phìn to ra là do tinh huyết của ông. Cả lũ chúng nó mà. Đéo l...n mẹ nó, lũ phản lũ phản.

      Âm thanh lẩm bẩm “đéo l...n mẹ nó” lâu ngày dồn nén lên bà vợ khiến bà ta tức khí đột quỵ bất đắc kì tử. Thằng con trai độc nhất cũng không ngoại lệ, mỗi dịp nghĩ học về thăm nhà, nó cứ phải là cái ống nhỗ cho ông ta khạc đủ thứ khẩu hiệu, triết lý, đạo đức trộn với đụ má, đéo mẹ, đéo l...n pha với mùi rượu ngâm hằm bà lằng rắn rít thành một thứ chất tổng hợp sền sệt cay nghiệt vào lỗ tai nó. Trái với mẹ nó thường hay nóng tính “sừng cồ” lại, nó luôn tỏ thái độ “mất tác dụng”. Trước giỗ đầu của mẹ nó mươi ngày, nó thi rớt tốt nghiệp phổ thông và nhất quyết bỏ học hẳn. Với cái bằng tốt nghiệp hệ bổ túc mà ông đã phải chạy chọt do mối quan hệ thương hại còn sót lại chẳng thể cứu vãn ước mơ tầm thường của nó, là chỉ thích làm thằng cuốc rẫy cà tàng, thích chơi đùa với mấy lồng chim chào mào, vui với mấy con chim cu gáy hơn là chơi với bút sách. Hầu như mỗi ngày, từ sáng sớm, nó với cái lồng chim mồi móc vào cán cuốc trên vai, tay trái cầm thêm cây rựa, thế là, mất dạng cho đến chiều tối mới ló về.

      Đôi khi ông rất đỗi hiền lành, năn nỉ tha thiết muốn có đứa cháu nối dõi. Thằng con vẫn phớt lờ. Ông khăng khăng bầu không khí vắng lạnh trong cái nhà này rất quen thuộc nhưng không phải lỗi ông, càng ngày nó càng phìn to ra quá kinh khủng.

      Sau khi đi dự đám cưới một người bạn, nó ở lại trên huyện chơi thêm vài ngày. Trong bữa cơm tối hôm nó về, thằng con trai dõng dạc nói với ông cha: con muốn lấy vợ. Nghe rằng, ông ta nhảy hí hửng như đứa trẻ, la lớn “tuyệt. Đù mẹ nó, tuyệt”. Hai cha con khề khà đối ẩm rất hòa bình, ôm nhau ngủ khò trên cái bàn ăn vương vãi cơm cá.

      Khắc nghiệt cho vợ chồng thằng con trai là, dù đã gần hai năm mà vợ nó chưa ăn chua, ói tanh lần nào. Ông cha một thời gian bớt cộc cằn, có phần vui vẻ và ít nói; nay trở lại cái tính khó chịu, và khó chịu gấp bội. Những cử rượu ngâm càng làm cho lý lẽ lè nhè của ông thêm chua chát. Có điều, ông ít trực ngôn cộc ngữ như trước kia, trái lại ví von nói bóng nói gió nhiều. Mỗi lần thế, chỉ có cô con dâu an ủi đôi câu ông mới chịu im mồm. Chồng nó, không biết trong đầu nghĩ gì mà vẫn cứ vô tư với mấy cái lồng chim chào mào, chim cu gáy.

     Tính cao trào dẫn tới xung đột của câu chuyện là: một ngày tháng Tư trời chuyển động, kéo mây âm u, dù đang trưa nhưng sấm sét ầm ầm, mưa bất chợt giăng mờ nương rẫy, núi đồi. Từ rẫy về, thằng con nhảy vào nhà, lao nhanh về phía buồng, có lẽ định lấy khăn tắm. Chợt nó đứng khựng lại giữa cửa buồng, sững sờ đến bất động trong vài giây. Trước mắt nó đang diễn cái cảnh  động trời của một ông già và cô gái lõa lồ đè lên nhau hì hục. Nó ném mạnh xâu cua đồng vào hai thân thể trần truồng cũng đang dừng nhịp kia và lao mình ra khỏi nhà, giữa cơn mưa xối xả.

      Từ ngày đứa cháu trai được sinh ra, ông nội nó nằm gần như liệt giường. Tay chân còn ngo ngoe động đậy đôi chút, nhưng hoàn toàn không thể điều khiển theo ý muốn, ngoài đôi mắt sâu húp. Nhiều đêm những cơn mê sảng giãy giụa xô ông nằm vắt nghiêng trên mép giường. Thằng con trai biền biệt. Xóm làng hồ nghi cái chuyện “nó đi làm ăn xa”, rồi đồn thổi đủ điều. Có một bí ẩn, ngoài đứa con dâu, chẳng ai biết đã mấy tháng qua từ ngày đứa cháu được sinh ra, ông nội nó chưa bao giờ nhìn vào mặt cháu. Ông nổi cơn thịnh nộ bằng cách trợn trừng mắt, ú ớ cái miệng méo đến sủi bọt nước miếng mỗi lần cô con dâu cố bế đứa bé tới cho ông. Tuy vậy, ông không thể cưỡng tránh hoặc từ chối sự chăm sóc của con dâu được. Ông bị lệ thuộc hoàn toàn. Mỗi lần vệ sinh tắm lau, thân ông trần truồng phơi lộ trước mặt con dâu, như một cái xác mô hình. Vài giọt nước rỉ ra từ đôi mắt nhắm, ông cố tránh thấy cái nụ cười mỉm mỉm mỉa mai của cô con dâu, trong khi bàn tay cô ta lăn chậm trên lớp da teo tóp của ông. Thi thoảng, cô ta ghé sát vào tai ông nói nói gì đó. Ông giật giật như động kinh.

     Có thể tạm kết thúc chuyện sau khi cô con dâu bồng con bỏ đi. Xóm làng to nhỏ với nhau về viên gạch bông được cạy bóc lên, lộ ra một cái ô trống sâu hơn 2 tấc. Người ta phát hiện nó ở dưới góc giường sát vách, trong khi xác ông cựu cán bộ được đưa vào quan tài.

     Có lẽ những gì tôi đã cố gắng kể ra không làm bạn hứng thú. Không thành vấn đề. Các bạn có thể suy diễn tùy ý.

     Một thời, câu chuyện này gây xôn xao khắp các làng xã lân cận, lên đến huyện và hình như khắp tỉnh cũng nghe phong phanh. Nói theo diễn ngôn hiện thời là nó từng rất rất “ve ri hót” đấy bạn ạ. Thật sự tôi bị câu chuyện này ám ảnh cho đến bây giờ. Lâu lâu về thăm lại chốn xưa, tôi còn nghe tên mấy nhân vật đi cùng một phần nhỏ câu chuyện được kể lại, đôi khi có vài chi tiết khác nhau, trong những buổi rượu vui.

                                                                                                                                              Saigon, Bình Tân 10/2017

GÓC XÉO CÀ PHÊ SÁNG (1)


            Truyện ngắn 

                                                                                                     SatrungKim


1-CẬU GRAB

      Như một thói quen, sau khi chở đứa cháu tới trường, lão quẹo ra con đường dẫn tới quán cà phê thân thuộc. Đôi lần, thấy thèm thèm thì ghé vào quán cóc vệ đường điểm tâm dĩa bánh ướt nóng phỏng lưỡi, hoặc tô bún bò Huế cay xé miệng.

      Đã mấy tháng nay, cái quen hơi buổi sáng ấy lây liếm trong sở thích của lão chỉ có thế. Nắng hay mưa, lão chả cần quan tâm. Cũng chẳng chú ý gì mấy cái cảnh người đi đến công sở hoặc chở hàng vùn vụt trên đường hoặc ùn ùn ở ngả tư. Đèn đỏ, ngừng; đèn xanh, đi. Chiếc Future 125cc mang hai ông cháu cứ mỗi sáng từ trong hẻm sâu len lỏi ra đường cái, dọt lên lách qua tránh lại đâm tới theo quán tính thiên tài tham gia giao thông của dân Việt hiện đại. Dám thề rằng những cô gái, chàng trai, các ông và cả quý bà cưỡi những chiếc xe máy đang vi vu trên đường chẳng có mấy ai có bằng lái xe A1, nếu có chưa chắc là bằng chính quy; do vậy người ta chạy thoải mái, biểu thị tính hiển hách vô luật. E rằng, nhất là mấy bà mấy cô, cứ nghĩ phụ nữ là ưu tiên nên ít khi nhường ai, chả thèm né tránh cho dù có gặp xe lỡ quá trớn đối đầu. Theo thống kê mà Ủy ban An toàn Giao thông kê ra qua các báo trong nước, mỗi năm bình quân hơn 15 ngàn người tử nạn trên mọi con đường phẳng phiu tân tiến khắp mọi miền đất nước thân yêu . Rất tiếc không thấy phân lượng giới tính.

       -Úi chà, hơi sức đâu hè ! Mụ vợ lão méo cái môi lên dè bỉu chê lão nhiều chuyện.

       -Cái bà ! Đúng là mèo bếp !

      Về nhà, thường ngày xảy ra như thế, sau khi lão tiêu hóa hết mấy miếng bánh ướt hoặc nhúm bún bò mất gần hết buổi sáng ở quán cà phê.

      -Vẫn như cũ bác a ?!

      Lão gật đầu cười với cô bé chạy bàn, kéo chiếc ghế gỗ sơn màu ô-liu ngồi xuống ở góc quán quen thuộc. Vị trí lão thường ngồi nằm ở góc ngoài của quán, phía trước là hàng hiên có mái bạt kéo, chiếm hết một nửa vệ đường, vừa đủ kê vài cái bàn theo chiều ngang trước mặt quán. Nửa phần còn lại dùng để xe, những đuôi xe vừa ngấp nghé sát đường lớn. Khách uống cà phê, từ trong nhìn ra, có thể thấy rõ được xe mình. Tuy vậy, ở đây vẫn có người giữ xe. Chỗ ngồi của cậu ta là dưới gốc cây bằng lăng công cộng, điểm biên giữa hai căn nhà phố. Từ vị trí này, sát dãy xe, dễ kiểm soát.

     Cậu ta, lão gọi là Cậu grab, xem xém bốn mươi bảy cái sự đời, nét mặt hơi khắc khổ với lớp da xanh xanh, nụ cười thân thiện làm những nếp nhăn ở hai đuôi mắt nổi lên như vết khắc trên đá. Cậu grab có cái tật hay giật ngược đầu hất mái tóc trước trán lên cao, lấm tấm vài sợi bạc. Cỡi chiếc áo khoác màu xanh lá có in logo công ty bỏ vào chiếc mũ bảo hiểm cùng màu ném vào gốc cây. Rảnh rổi, đôi lần, cậu ta kéo ghế ngồi kề lão tán gẫu năm ba chuyện vẩn vơ, chuyện làm ăn, giết thời gian trông chờ hết ca làm. Ờ, cậu ta chỉ trông xe buổi sáng thôi. Còn lại chạy grab thồ, rồi phụ dọn hàng, chở vợ từ chợ về. Cơm nước xong, ai gọi thì tranh thủ vài cuốc thồ đêm. Đã mấy lần Cậu grab chở lão ra bến xe Miền Tây nên lão quen miệng gọi tên như thế, cũng vì chả tò mò hỏi han đời tư ai bao giờ. Nghe phong phanh cậu ta là em chồng của chủ quán. Đơn giản thế thôi, bác ha! Gói gọn nghe thì thế, nhưng chẳng đơn giản chút nào về sự mưu sinh. Chiếc Future cùng lão di chuyển buổi sáng vẽ ra một đường cong quẹo đơn giản, nói ra miệng chỉ là vài câu đơn giản, viết ra giấy cũng chỉ vài dòng chữ giản đơn, chẳng mấy cái chấm phẩy xuống dòng. Thế mà lão ngẫm đi nghĩ lại thấy chẳng đơn giản chút nào.

      Cậu ta kể trước đây cũng là tay anh chị từng trải trên chốn buôn lậu hàng cấm từ biên giới Cam-Bốt về. Dù chung chi, lót đường đầy đủ nhưng vẫn bị mấy trận phản phé. Phải tăng phí, đương nhiên lượng hàng phải nhân lên. Gan mật cũng tăng thêm tính bạo tợn theo sự tăng trưởng đầu tư kinh tế đúng quy...trình. Chỉ có cái mà cậu ta quên tăng, đó là sự nghi ngờ vào kẻ có quyền đã thề hứa bảo lãnh cho cậu ta. Ba tháng trong tù, cậu ta mới ngộ ra chiều sâu của cái-nên-tăng và cái-nên-giảm đối với những kẻ hùng hổ bá quyền độc trị, nói một đường làm một nẻo. Trong vòm trời lem luốc thu hẹp này, hai chữ bảo tín thật phung phí y như phải mua cái an sinh BHXH nhà nước vậy thôi.

       Bạc tỉ trong tay cũng đã rồi, bây giờ bạc lẻ cũng thế thôi, mà khỏe, bác ha ! Cậu ta nhún vai ngửa hai bàn tay ra nói, sau khi mời lão một điếu thuốc Jet. Giọng nói mang hơi hướng bất cần nhưng không có vẻ gì bi quan lắm. À, ra thế, dường như lão hơi hiểu hiểu hai tiếng “đơn giản” thoát ra từ miệng Cậu grab. Nó mang một cái gì nhè nhẹ từ lồng phổi cậu ta phả ra theo khói thuốc. Khà hết một tách trà còn nóng mà lão vừa mới rót ra cho cậu ta, tiếng khà chả khác chi mấy tiếng khà của bợm nhậu khà rượu. Dường như cậu ta sợ cái kí ức hãi hùng còn sót cặn bã trong cổ họng nên khà cho nó trôi tuột xuống dạ dày, sẽ tiêu hóa ra cửa hậu môn và rồi, có thể cậu sẽ khà thật dài một tiếng khoan khoái rất nhẹ nhàng.

       -Cuộc sống là thế thôi. Tranh đua làm gì. Chết chẳng mang theo được chi. Phải không bác ?

      Chợt nhiên cậu ta buông ra một câu nghe quá quen như thế. Lão đến đỗi nhàm tai, nhưng vẫn gật đầu đồng ý. Xét cho cùng, câu triết lý cùn ấy rất đúng. Thế nhưng nó thường xuất hiện trên môi miệng của kẻ thất bại, mất mát và kẻ luôn chán chường. Dường như, nó là phản ứng tự vệ cuối cùng để con người chối bỏ tuyệt vọng và tìm thấy chút bình an. Những kẻ quyền uy, giàu có, đang ăn ra làm nên...chẳng ai nói thế, dẫu rằng họ vẫn biết tận ngọn nguồn sự thể ấy. Cậu ta dùng ngón trỏ gõ gõ lên mặt bàn hát “ tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây”, rồi nói:

    -Ông Phạm Duy, thật chán !!

    Lão đang suy nghĩ về “cái mang theo được chi”, buột miệng:

     -Cậu nói phải.

     Lão chỉ chỉ ngón trỏ vào đầu. Cậu grab ngồi thu mình lại, có vẻ đang mơ màng điều gì đó, mắt nhìn ngước lên trời, hướng mắt bị tấm bạt cắt xéo một vạt nắng mai còn mang chút hơi lạnh của cơn mưa đêm vướng lại.

      -Dạ. Em đơn giản vậy thôi. Buông bỏ tất.

       Cậu grab vừa khoát tay vừa nói, có một chút lạc giọng và hơi gằn. Bình thường cái giọng Trung pha Bắc kia nghe nằng nặng nhưng tếu tếu, lão cười với câu nói được thốt ra từ miệng ấy đã biết bao lần, quen như một câu cuối của điệp khúc được lập lại nhiều lần trước khi kết thúc bản nhạc. Lão nhìn thẳng vào mặt Cậu grab, cố phát hiện trong giọng nói ấy hôm nay có gì khác thường. Cậu grab đưa hai nắm tay giụi giụi mắt rồi cũng nhìn trực diện vào lão, miệng cười hài:

      -Đừng quên cái bản mặt khốn nạn này nhe bác. Biết đâu mai này em và bác sẽ còn tái ngộ trên...mây !

      -Nói bậy! Cậu mày...

     Câu nói của lão bị tắt ngang vì cái vết thâm thâm xanh vắt qua sóng mũi của Cậu grab như mới hiện lên đập vào mắt lão. Lão cố xua cái linh cảm lạnh lạnh vừa nhú ra trong ý nghĩ. Cố hút hết chút cà phê cặn đọng trong đáy ly, vỗ vào tay cậu grab lão nói như để tránh né :

     -Ờ này, cậu grab, trưa chiều ngày mốt nhe. Đi bến xe Miền Đông.

     -Cái gì bác, đổi hướng rồi à ?

     -Quên quên. Bến xe Miền Tây như mọi khi. Nhớ là Thứ Sáu đó nghe !

      -Ok, bác.
*   *
*
       Sáng nay, đầu tuần, lão lại chở thằng cháu đến trường, vẫn trên con đường quen thuộc ồn ào tiến xe gầm rú. Tự nhiên lão quan sát rất cẩn thận và chạy chậm hơn thường ngày. Chẳng phải lão sợ mấy ông áo vàng núp ló trước ngả tư kia. Ngày nào chả có bọn ấy, nhưng tai nạn vẫn cứ đều đều tai nạn. Lão nghe văng vẳng bên tai tiếng mụ vợ nhắc nhở chạy chậm thôi nghe ông, già rồi còn hăng máu mà làm chi. Hôm qua đầu ngả tư lộ có tông xe nhau thảm khốc lắm đó. À, cái...mèo bếp này, lèo nhèo lẽo nhẽo hoài. Ai mà chẳng lo thân chứ. Lão nghĩ, mình chỉ xếp hạng trung bình chạy thôi. So gì, cái thời còn ở lính ấy, cởi mấy con Dodge, mấy con GMC chở hàng quân tiếp vụ chạy vù vù dội đèo lượn dốc, đôi khi nghe mìn nổ sau xe còn chả ngán. Rồi cái thời chở hàng xuyên tỉnh khi cần, phải liều mạng vượt ào qua mấy cái trạm thuế vụ đến lì mặt. Ối dà ! Cái Honda téo tẹo này chỉ là búng ngón tay ! Lão rất bực mình khi có mấy cô ả ăn mặc sang trọng, chạy xe đời mới cứ rề rà trước mặt lão như muốn khoe mẻ hoặc mấy ông anh ra vẻ rối việc vừa chạy xe làng nhàng vừa nghe điện thoại. Bằng cách nào lão cũng phải vượt qua mặt. Chứ hăng máu đéo gì, nếu còn hăng lão đã khoái chạy sau mấy ả, kể cả xồn xồn ngắm mấy cái mông nhìn mấy cái đít ẹo qua ẹo lại, nhỗm lên nhỗm xuống không vui mắt sao. Hăng gì ! Ờ mà cũng thương cái mèo bếp thật. Khi không, sáng nay, lão cảm thấy mình ngoan ngoan thế nào ấy. Chậm xe lại gần như dừng hẳn, lão nhìn phía sau rồi cho xi-nhan quẹo trái, rà rà chạy về hướng quán cà phê quen thuộc.

      -Vẫn như cũ hả bác !

      -Ừ, vẫn vậy.  Cho bác mượn tờ báo nhé !

      Lão cố ý kéo dài uốn điệu tiếng nhé rất nhẹ. Cô bé phục vụ chậm rãi quay vào trong, mặt chẳng có chút biểu hiện cảm xúc gì. Cũng không có tiếng thưa tiếng dạ, chứ chưa nói gì nghe được tiếng cười lí nhí dễ thương như thường ngày. Hơi chột dạ, nhưng lão không để tâm làm chi.

      Vừa lật trang báo, lão nghe lỗ mũi hăng hắc mùi nước hoa, vừa có tiếng phụ nữ bên tai lão:

      -Anh biết gì chưa ?
  
      -Biết gì?

      Cô chủ quán, tuy thuộc lứa xồn xồn đang thời hồi xuân, gọi cô cho dễ cảm tình, kéo chiếc ghế từ bàn sau lên ngồi xuống cạnh lão. Cô ta thở thật dài, đưa tay vuốt ngực nói như bị ngộp tim:

     -Thằng Tú chết rồi !

     -Tú ? Tú nào ta ? Lão có vẻ bình tĩnh.

     -Thì thằng Tú giữ xe đó !

     -Grab ? Cậu grab ?!
   
    Giọng chợt gấp gáp, cảm thấy hơi thở bị ngưng nghẹt.

     -Tông xe, chiều tối ngày kia anh à.

     -Thứ Sáu hả ?

     -Dạ, xui xẻo tội nghiệp. Cũng vì miếng ăn cả. Nghe nói đón nhầm khách ở thổ địa của một hãng xe khác, bị rượt đánh. Dọt nhanh để thoát thân, không may một chiếc xe ben chở cát chạy ngược...

     Tai lão đang ù dần, mất hẳn tiếng cô chủ đang kể lể dài dòng về cuộc hành trình mưu sinh oanh liệt ngọt ngào và cay đắng tủi nhục của cậu em họ hàng bên chồng. Đâm mắt vào gốc cây bằng lăng đối diện, một chiếc ghế nhỏ dần nhỏ dần rồi teo hút đâu không còn thấy nữa. Bây giờ, lão mới nhận ra, không gian cà phê sáng hôm nay có gì đó thiếu vắng. Cái linh cảm hôm nọ thật sự hiện về bấu xé lão. Đã từ bấy lâu, cõi xúc cảm trong lão gần như trơ hóa, đang gỉ sét dần. Nay nó chợt chuyển động khi một cánh chim vô hình từ đâu bay xẹt qua mắt mổ vào tim lão vài cái rồi xa mất.

     Nhìn lên trời, mái bạt của quán cà phê cắt xéo một mảng mây trắng mỏng như bông gòn.

    -Đừng quên cái bản mặt khốn nạn này nhe bác. Biết đâu mai này em và bác sẽ còn tái ngộ trên...mây.

                                                                                                                    Cai Lậy 11/11/2017

góc xéo cà phê sáng (2)



  
   2- THẰNG KHỆCH

      Lão khẳng định tên trong giấy khai sinh của nó không phải là Khệch. Cậu grab lúc còn sống cũng nghĩ như lão. Cậu ta nghe bà Sáu bán nhang trước cửa chùa gọi thế. Phải nói là thằng Khệch rất sợ Cậu grab.

     Như thông lệ, dưới gốc bằng lăng kề chỗ ngồi thường ngày của Cậu grab, luôn có một chiếc ca nước trà đá khoảng nửa lít và một chiếc ly thủy tinh có in hoa. Thằng Khệch ghé qua rót ra một ly và làm một hơi hết sạch. Điều đáng nói, dù là có khách đang ngồi, nó lần lượt từ bàn này qua bàn nọ bưng từng ly trà đá lên uống sạch, hành động rất bình thản. Khách hơi ngớ người nhưng chẳng ai buồn nói gì. Chỉ có Cậu grab nạt lớn:

     -Này, không được! Cấm nghe !

     Trừ phi thằng Khệch chưa cầm ly nước, nó sẽ di chuyển qua bàn khác. Còn lỡ đã cầm, nó từ từ nốc hết ly, rồi lấy tay quệt ngang miệng và quay nhìn Cậu grab như muốn nói: dạ! Dạ! Sau này, chịu không nổi, Cậu grab đi tới chỉ vào mặt thằng Khệch, nạt lớn : không được, nhớ chưa ? Ra ngoài kia! Cậu grab chỉ tay về phía cây bằng lăng. Thằng Khệch sợ sệt, vội đi thẳng mà không dám ghé bàn nào nữa. Nếu ai là khách quen như lão, hành động mà thằng Khệch lấy nước của khách uống thành một cái gì bình thường, có khi là một đặc trưng của quán. Nói điều này vì quán vẫn thường đông khách. Phiền cho chủ quán hoặc phục vụ là cứ phải xin lỗi khách luôn.

      -Em cũng không rõ lai lịch nó nữa. Chỉ biết nhà nó ở hẻm kế bên này.

      Lão nhìn theo hướng tay của cô chủ quán. Hỏi tiếp:

      -Nó bị gì?

      -Nghe nói nó là con trai của một ông y sĩ bộ đội và mẹ nó là y tá. Nó là út, hai đứa đầu là gái. À, hình như nó bị kinh phong từ nhỏ. Tay nó, anh để ý xem, không khi nào buông thẳng, luôn co lên ngực và run run. Có người nói do ba nó bị nhiễm độc gì đó từ thời chiến tranh, chẳng biết đúng không.

      -Thấy nó cũng hiền mà.

      -Phải, chưa bao giờ thấy nó hung dữ cả. Mọi người quanh đây ai cũng thương, tội nghiệp !

      -Nhưng sao chỉ thấy nó tới đây buổi sáng thôi.

      -Buổi sáng nó đi một vòng ngang đây tới chùa, quay lại ngang đây rồi về nhà uống thuốc, rồi...không biết nữa. Ngày nào em cũng dành cho nó một ca bự trà đá, vậy mà nó thích uống của khách mới chết chứ ! Người nó như luôn thiếu nước.

      Từ ngày không còn Cậu grab, lão đã chuyển chỗ ngồi vào trước quầy tính tiền, gần nơi cô chủ đứng pha chế. Rỗi rãi, khi đã ít khách cô chủ quán hay ghé xuống bàn lão ngồi tán gẫu chơi.

      -Thằng Khệch bây giờ bực mình lắm. Nó không sợ thằng Tánh. Đó anh xem kìa, nó tỉnh rụi. Thay ly khác đi con, Tánh!

      Tánh là tên cậu thanh niên mới vào làm. Đang là sinh viên, tranh thủ vừa học vừa làm ca  kiếm thêm chút trang trải. Ngoài giắt giữ xe, cậu ta còn phụ bưng bê, lau dọn bàn. Lão đã một lần chuyện trò với cậu ta, nhưng có lẽ vì ngại không dám ngồi lâu, thường đến ngồi ở cửa ra vào quán. Đôi lần lão thấy Tánh la nạt thằng Khệch, nhưng vô hiệu. Thế là đành nhăn nhó mang lý nước khác ra đổi cho khách và không quên một lời xin lỗi.

      -Anh ngồi chơi nhe, có khách vào.

      Cô chủ quán vội quay vào trong quầy. Lão nhìn ra ngoài bắt gặp thằng Khệch đang lấy tay quệt ngang miệng, một dòng nước nhỏ chảy ra từ mép miệng lệch môi. Đúng ra giờ này, gần trưa rồi, nó phải về nhà uống thuốc theo cữ, sao còn rề rà ở đây. Hình như chưa đã khát thì phải, nó bước tới đứng ở lối ra vào giữa hai chiếc xe máy, mặt quay vào trong quán. Khó xác định ánh mắt nó hướng về đâu. Khuôn mặt như bị nạo vét bởi cặp mắt khá sâu, nhô lên cặp lông mày nhợt và thưa gần như trụi lông. Trán nó quá ngắn, bị dẹp lên phía trên khiến đỉnh đầu đụn lên cao; với đám tóc lún phún càng thấy rõ phía sau đầu thẳng dẹp tạo cho cái đầu nó như một ngọn núi nhọn. Rõ ràng nhìn nó ai cũng biết có sự bất thường, dù nó luôn ăn mặc bình thường với cái quần sọoc, áo sơ mi ngắn tay, hoặc áo thun. Và ngày nào cũng thay đổi y phục sạch sẽ.

      Có điều, với lão, chưa bao giờ được nghe âm thanh nào từ miệng thằng Khệch phát ra. Cho dù nó hay cười với cái môi méo, cái hàm dưới chìa ra lộ bộ răng lôm côm, có vài cái đen gỉ. Nó làm gì cũng chậm rãi, kể cả lê từng bước đi. Mấy lần Cậu grab giơ nắm tay dọa đánh, thằng Khệch chỉ hơi nghiêng người và cười, mắt nháy nháy. Nhu cầu của nó chỉ là “uống”. Nó luôn cần uống bởi dường như nước từ miệng xuống bụng bốc hơi nhanh bay mất. Thằng Khệch có suy nghĩ không nhỉ? Nếu không ông Descartes buồn chết được (!).

      Lão đang liu riu ghi nhớ hình ảnh của thằng Khệch thì giật mình vì tiếng “xoảng” của thủy tinh vỡ.  “Đồ chó má ! Đù má cút !” kèm theo là tiếng xô đẩy bàn ghế, tiếng ly vỡ tiếp hòa trong những tiếng đấm đá thậm thụi. Khách từ trong quát vụt chạy ra, có mấy tiếng la :

      -Đừng, đừng đánh nó. Nó mất trí mà!.

      Lão vừa đứng dậy, tiếng xe đổ rầm. Bước nhanh ra ngoài, người ta bao quanh lại nhưng không ai dám nhảy vào can. Chỉ thấy một cô gái ra sức ôm ngăn một chàng trai đang hung hăng dấn tới. Một thanh niên khác vừa chỉ tay vào thằng Khệch đang nằm vắt trên chiếc xe bị ngã, hắn ta đưa chân đạp vào bụng Khệch mấy cái. Mặt nó đầy máu. Thằng Khệch đau đớn ú ớ nhưng không kêu la một tiếng nào. Có lẽ thấy người đông, hai thanh niên, ông nào cũng xăm trỗ đầy cổ và tay, cùng cô gái trẻ lên chiếc xe máy phân khối lớn, rú ga dọt nhanh. Hai ống bô phụt ra hai đám khói dài như biểu thị sự đắc thắng. Cách nằm rạp trên xe phân khối lớn có vẻ thể hiện tính anh hùng thời đại ghê. Lúc này, một cậu thanh niên và hai người đàn ông vội đến xốc bế thằng Khệch lên.

      -Cấp cứu ! Kêu xe cấp cứu!

**

       Lão đến quán khá sớm như thường lệ. Chật vật lắm lão mới chen được chiếc xe máy vào gần gốc cây bằng lăng, phía nhà bán tạp hóa bên cạnh quán cà phê. Khách hôm nay đông thật. Chỗ lão thường ngồi hai người phụ nữ đã chiếm.

       -Anh ngồi đỡ đâu đó đi. Tánh ơi, lấy ghế cho bác.

       -Thôi được rồi.

       Lão khoát tay rồi bước trở ra. Đi về hướng cửa chùa, gần cái sạp của bà Sáu.

      -Xin lỗi, có ai ngồi nữa không?

      -Dạ, bác cứ tự nhiên.

      Bàn này, lão thường thấy chỉ có một người đàn ông khoảng trung niên ngồi. Cũng là khách thường ngày của quán. Họ nhận ra nhau dù chưa hề hỏi han nhau. Cậu ta, gọi vậy cho nó trẻ, đang chăm chú đọc tin hoặc là chơi game, lên “phây” gì đó với cái di động. Chợt bà Sáu xoay người lại nói với lão:

     -Tội nghiệp thằng nhỏ, ngơ ngáo chẳng biết gì. Mà, cái bọn ăn mặc sang trọng đó, trời đánh thiệt a. Chắc chắn tụi nó là con nhà có máu mặt mới hách dịch dzậy!

     Nói xong bà Sáu thở dài ngao ngán khiến cho lớp thịt thặng dư trên người bà rung rung. Tuy vậy, đôi mắt của bà đen trong toát lên ánh nhìn nhân ái. Lão từng thấy bà ôm đầu thằng Khệch xoa xoa, cười với nó, nói nói gì với nó khiến nó cười theo.

     -Chị Sáu, thằng Khệch sao rồi ? Lão thừa cơ hỏi chuyện.

     -Chấn thương não. Đang nằm phòng mổ.

     -Nặng thế à !

     -Trời ơi, đã bị kinh phong lại bị đánh toác đầu nữa thì...

     Bà Sáu thở dài bỏ lửng câu nói. Lão cũng im lặng. Một khoảng trống tê người len theo cơn gió ban mai tỏa ra trong lão. Giụt điếu thuốc xuống đất, lão giậm chân lên một cách vô thức. Bà Sáu ì ạch cố đứng dậy, lấy một cây nhang thắp lên và gắn ở kẽ gỗ của góc sạp. Lão định mở miệng hỏi, nhưng nghĩ sao lại thôi. Chắc là bà ta cầu khách mua ? Mà ngày mai cuối tháng rồi, sẽ tấp nập khách cúng chùa thôi mà. Bà Sáu quay lại ghế ngồi rồi nói:

     -Ôi... cái thời với thế, chán gì đâu!  

      Câu than thở của bà Sáu vặn xoay con mắt lão về phía cây bằng lăng đầu kia. Một vài chiếc lá rơi chao giữa vạt nắng mai ươm vàng. Có một chiếc lá bay bay như bàn tay ai đó vẫy từ xa. Chập chờn trong lão một ý nghĩ buồn. Rất buồn. Nếu lỡ thằng Khệch...

      Lão nhìn lên trời, góc mái bạt của quán cà phê che ngang một mảng mây trắng mỏng non. Hình như Cậu grab đang vẫy tay trên ấy.

                                                                                                   Cai Lậy 17/11/2017



góc xéo cà phê sáng (3)


       

 3- CÔ CHỦ QUÁN

      Lão thích tới quán cà phê này vì cà phê ở đây sạch. Thật sự sạch. Không pha trộn thêm gì cái thứ bột ở chợ Kim Biên. Mỗi lần cô chủ bỏ hạt cà phê vào máy xay nghe như tiếng suối róc rách, mùi núi rừng phảng phất, hương của đất tỏa ra khắp quán. Những hạt nhẹ bay vướng vào mắt làm cho đôi mắt nâu thêm, một màu nâu sắc lẻm pha những tia vàng phát ra ánh nhìn huyền bí như mắt mèo. Với nụ cười khá uể oải, một chút gượng ép xoáy trên hai lúm đồng tiền một nét duyên mơ hồ lộ ra hàm răng trắng đều mà lão nghĩ phải có sự can thiệp của nha sĩ. Nếu không có lớp phấn mịn, chắc chắn lớp da mặt ấy khó giấu hết những vết thời gian in lằn. Không biết lớp sần sùi, những đường nhăn ấy chứa cái gì: sự tần tảo, đau khổ, từng trải, mê đắm...?

      -...Anh biết đó, hồi ấy em có biệt danh là “Beo Cái”.

      -Ghê nhỉ !

      -Đùng một phát ! Bỏ học. Mười bốn tuổi phải nhảy tàu lửa, trốn vé, lao theo mấy bao mì lát phụ mẹ đi buôn rồi. Thời đó, như anh biết, đem được nông sản ra khỏi địa phương là một vấn đề. Trốn chui trốn nhủi như chuột. Chỉ dám đi tàu đêm. Khi nào cũng có tiền trạm thăm dò trước. Cộ bò thường phi như ngựa, lỡ gặp mấy họng súng chặn lại vẫn quất đít bò phang tới luôn. Ga thuộc xã khác, dù vậy hàng hóa phải đem giấu vào bụi chờ tàu tới vì ở đâu cũng đầy “ông kẹ”. Lên tàu lại là một vấn đề, nhưng dễ giải quyết hơn. Có khi phải nhảy trốn từ mái toa này qua mái toa nọ, thanh ngang những cầu sắt thời Pháp thuộc như lưỡi kiếm một ác thần vụt tới tấp, cố ép mình nằm rạp xuống hết cỡ, tưởng cái mặt bị cắt phẳng, thẩn thể mỏng lép như miếng giấy chao đảo vào địa ngục vô diện. Cứ thế, mười sáu tuổi đã mang danh “Beo Cái”, nhanh và hung tợn dù tuổi nhỏ nhất băng “Beo”. Lúc này mẹ ở nhà lo nương rẫy. Bé An còn đi học. Ba vừa mất vì chứng sốt rét ác tính, bị nhiễm khi ở trại cải tạo, tái phát khi về quê vợ phá rừng làm rẫy. Dân công chức bàn giấy mà, chịu sao nổi gánh đá vác cây. Nhảy tàu thêm một năm nữa thì em đổi nghề.
      
      Thú thật, sự trở chứng của tuổi dậy thì đi qua em sao nó như gió thoảng. Chả biết làm thẹn làm duyên làm dáng cái mốc xì gì cả. Mộng mơ là thứ xa xỉ và vô bổ. Chỉ nghĩ tới: tiền và tiền, là vì sợ quá sợ: đói và đói. Có động lòng cảm xúc, não lại quy ra những con số hoặc đôi khi chỉ tự vệ, chung quy là quần quật bảo vệ miếng ăn. Nước mắt có chảy ra cùng là lúc những lời chửi rủa mắng nhiếc uất ức tuôn xả. Khi gặp Thìn em cũng chả chút cảm xúc gì. Một tay lái xe từ chiến trường K về. Nhờ cái mác bộ đội ấy, được vào lái xe hàng cho một công ty nhà nước ở Saigon, lại ranh mảnh khôn khéo nên mấy trạm kiểm soát ít khi làm khó dễ anh ta. Em ăn theo đi buôn đường dài. Đa phần là mỹ phẩm Thái Lan nhập lậu. Dong duỗi Nam Bắc em giàu lên không ngờ. Và cũng không ngờ mình có chữa lúc nào chẳng hay. Đấy, con bé Tâm thường ẳm con nó lên quán này đấy. Thuê phòng trọ ở Saigon, một mình vào Từ Dũ đẻ. Ba nó, gã Thìn ấy, vất cho đống áo quần trẻ sơ sinh rồi mất tăm. Nghe nói vượt biên thì phải. Sau này con An, em gái em qua Mỹ có dò la tin tức nhưng vẫn biệt tăm. Ối dà ! tới đâu rồi ha ? À, mẹ em chẳng biết gì ráo cho đến khi con Tâm gần một tuổi em bồng về quê. Ngỡ ngàng, thở than rồi cũng huề. Cái chuyện con không cha, xóm làng quê em bắt đầu dần quen. Dỡ dang như em thì có mà như nấm sau cơn mưa ! Thoát nghèo, không phải. Thoát chén khoai củ mì nghẹn họng, muốn thấy được hột cơm thì phải nối đuôi nhau ra khỏi làng, bươn chải đường dài đường ngắn, lợi dụng nhau mà kiếm sống. Phụ nữ...ôi, Thượng đế năm bờ oăn!

      Có chút vốn, em làm lại cái nhà mới khang trang hơn. Lấy chút ít bánh kẹo, xà phòng, đường muối, tạp nhạp thứ tiêu dùng từ chợ huyện về cho mẹ bán. Lời lãi chả bao, nhưng cốt để mẹ ở nhà. Rẫy nương tới vụ thì thuê người làm. Mua cho con An chiếc xe đạp về huyện học cấp 3. Lúc này cuộc sống có phần dễ thở, một thứ dễ thở như gió vù qua lỗ mọt của tường sắt gỉ. Cộ bò chất đầy nông sản ra ga ít cần tiền trạm. Sân ga bớt hoạt náo hơn, có vẻ thưa dần con buôn lên xuống. Đùng một phát ! Cả làng quê em bỗng chộn rộn khi ở huyện mọc lên nhà máy đường. Thế là, theo chủ trương chuyển đổi cây trồng, nhà nhà cải tạo đất canh tác từ mì qua mía. Ở làng mọc lên hai cái che mía. Một cái do bò kéo, một cái chạy bằng máy nổ của Hợp tác Xã. Em nhanh chóng thu mua đường nước, rồi thu mua mía vườn móc nối với nhân viên nhà máy đường kiếm chênh lệch. Được vài mùa thì teo.

     -Teo là thế nào?

     -Thì mất mùa. Khô hạn, thất thu. Nhà máy kêu than, tạm đóng cửa. Em, máu “Beo Cái” tham lam bung tiền mua vườn từ khi người ta mới xuống giống. Lỗ sặc sừ. Bỏ nghề, bỏ làng theo bà chị họ ra tỉnh mở quán cà phê.

      Thật ra định nghe lời bà chị họ vào làm một công ty dệt nhà nước. Chồng chị ấy là trưởng phòng kinh doanh thì phải, em nhớ mang máng thế, bà chị là văn thư. Được cấp một căn hộ ở khu tập thể nhà máy. Khu này ở trung tâm thành phố tỉnh. Hằng ngày có xe đưa rước ra nhà máy ở ngoại ô và chiều đưa về. Căn hộ gia đình chị ở căn bìa, phía ngoài là khoảng trống khá rộng kéo dài ra đường lớn. Bà chị họ khi ở cữ đứa đầu, đã tận dụng thời gian rỗi dựng lên mấy tấm tôn bán đồ lặt vặt. Ngõ hẻm này thông thương giữa hai đường phố lớn, nên người qua lại khá đông. Ý nghĩ bán nước giải khát nhảy tưng trong đầu em, tuy cái máu bươn chải có phần héo hon trong lòng sau vụ mía, nhưng chữ tiền làm em lại háo hức. Được anh chị họ đồng ý tùy nghi sử dụng, em bòn hết vốn liếng còn sót lại đầu tư vào cái quán. Nói thiệt với ông anh chứ, biết mẹ gì đâu cà với phê. Thời gian làm quán, mẫu mã thiết kế, bàn ghế cũng như thợ thầy do ông anh họ lo hết, em lao vào mấy quán cà phê khắp thành phố để học lõm. Sáng quán này, chiều quán nọ, tối quán kia riết ghiền cà phê luôn. Mà, phải rồi, cà phê có chất thông minh đó anh.
    
       Lão phì cười đến phun nước miếng. Cô chủ dễ thương như một đứa trẻ.

       -Thiệt mà. Em thấy mình biết động não hơn. Có khi ngồi quán nhìn cái này cái nọ mà suy nghĩ về cuộc đời nè. Mấy người ngồi trước ly cà phê thấy họ vô...vô gì ta, à vô tư. Em nghe nói mấy ông thi sĩ ghiền cà phê lắm, phải không anh ?

      -Không biết nữa. Cũng có thể họ ghiền một cái gì đó.

      -À ha ? Để em kể tiếp. Thời gian đó, con An ra tỉnh học Cao Đẳng Sư Phạm. Phải thuê nhà cho hai chị em. Mẹ muốn giữ con Tâm lại để mẹ bớt cô quạnh. Em đồng ý. Căn hộ gia đình bà chị họ có một gác lững nhưng cũng rất bất tiện chuyện sinh hoạt vợ chồng người ta. Vài tháng sau, con An biệt tích. Thật ra chuyện nó vượt biên hai chị em đã suy tính rất kỹ, không cho ai biết kể cả mẹ. Trước đêm nó theo thằng bồ ở xóm chài đi lưới, hai chị em ôm nhau khóc như chưa từng được khóc. Vừa lo sợ vừa hy vọng. Chưa bao giờ em thao thức suy nghĩ về cảnh đời cay đắng thế. Về thăm quê, mẹ hỏi An sao lâu không về. Dạ, nó đi thực tập xa lắm mẹ. Dần dà mẹ hồ nghi có chuyện gì. Em cố lãng tránh. Đùng một phát ! Thư nó từ Mỹ gởi về. Mẹ con ôm nhau khóc sướng chi lạ ! Mẹ đấm thụi thụi vào lưng em tổ cha bây, tổ cha bây. Hai mẹ con cười vang trong nước mắt giàn giụa. Có lẽ suốt cuộc đời mình, đây là lần duy nhất em cảm nhận được sự ấm áp của tình yêu thương thật sự.

       Phải, ngay cả bố Khương, không thể gọi là tình yêu được. Mặc dù Khương đã trung niên, từng là thủ trưởng của chồng chị họ em. Sau này chuyển qua Hải quan. Gọi bố Khương vì anh chị em ở khu tập thể gọi vậy. Ông ta là khách thường nhật của quán. Một bữa nọ, ông ấy mang tới một cái bảng, tầm 50x80, rồi loay hoay treo dưới mái tôn ngoài, giữa trung tâm quán. Từ đó quán có tên “Cà phê Dệt”. Cha mẹ ơi, tên gì kì cục ! Vậy mà “Cà phê Dệt” lại đông nườm nượp. Có thể bố Khương còn chút tiếc nuối cơ quan cũ. Cũng có thể vì ý gì đó, chẳng hiểu. Những buổi đông khách, như Chủ Nhật, em lo không xuể từ pha chế, tính tiền, bưng bê đủ thứ chuyện đổ mồ hôi, phải nhờ mấy cô công nhân trẻ phụ việc. Trả thù lao xứng đáng. Ai cũng vui vẻ. Quán cũng là chỗ nhậu đêm của ông anh họ và bạn bè anh ấy. Một sáng Chủ Nhật nọ, bố Khương bảo em chiều nghỉ bán. Hôm nay tiệc đưa tiễn. Tuần tới bố chuyển công tác ra cảng tỉnh khác rồi. Hồi đó bia bọt thuộc loại hiếm, thị trường đa phần là bia lên men. Nhưng cuộc chia tay đó bố Khương cho bày mỗi bàn mỗi chai rượu ngoại thứ thiệt. Mấy tay đệ tử dự phòng thêm mấy chai nữa. Đêm ấy bố Khương gục ngay tại bàn khi chỉ còn vài người kề cà tới khuya. Đệ tử dìu chở vể không chịu, bảo ở lại Cà phê Dệt mà thôi. Em thật lúng túng. Nhờ ai đó dìu ông ấy lên chiếc ghế bố. Nghe tiếng ngáy như bô xe ai cũng cười. Sau khi phụ dọn dẹp, mọi người về hết. Không lẽ để bố Khương một mình ở quán. Bà chị họ ném cho chiếc chiếu và tấm màn hoa rồi khất khưởng về ngủ. Lấy tấm màn đắp cho bố Khương, trải chiếc chiếu ở gần quầy nằm xuống, đầu hơi nhưng nhức do mấy ly rượu. Ngủ thiếp lúc nào không hay. Đêm ấy hình như mơ mình có cánh bay bay thì phải. Đùng một phát! Cánh đập vào ngọn núi. Nghe đau thốn. Choàng tỉnh dậy nhưng không nhúc nhích nổi. Bố Khương đang đè mạnh trên mình. Thế là xong. Nằm đơ người chẳng biết muốn khóc hay cười nữa.

      Khoảng vài tháng sau, một chiếc Ku-oát phanh “roét” ngay trước cửa quán. Bố Khương nhảy phóc ra. Một người đàn ông trẻ khệ nệ ôm một chiếc tivi vào quán. Để trên quầy đi, bố Khương nhìn em nói tiếp, hàng nội địa Nhật đó. Suốt cả buổi nỉ năn, em vẫn từ chối không theo ông ta ra tỉnh mới. Nhìn cái tivi em chẳng vui vẻ gì. Thời đó, có tivi dù đen trắng là oách lắm. Với em, chỉ tổ mệt thêm vì khách đêm thường ngồi nán hết chương trình.

      Ông anh này, em nói giọng Bắc lai tứ phương tám miền đây anh nghe rõ không ?

     -Bắc tổng hợp, quá hay !

     -Rõ hiểu là tốt rồi. “Quá hay” là nịnh dẽo, tính sau. Cao hứng, nhiều khi quay lại cái chửi thề chửi tục ông anh bỏ quá cho nhe.

     -Vậy mới vui, mới thực lòng. 

     -Em nhớ khoảng tháng tư năm sau. Một ngày nắng như thiêu. Chiếc Ku-oát lại “roẹt” trước cửa quán. Lần này là một đầu video, một tivi màu nội địa, một chục băng video. Chẳng bao lâu sau, em sang lại cho bà chị họ hết. Giã từ Cà phê Dệt, em lên đường theo tiếng gọi...hàng nội địa Nhật. Chơi bạo giàu nhanh. Hàng điện tử phế thải từ Nhật nhập về cảng có bố Khương lo. Xe quân vận chở hàng quốc phòng bố Khương cũng lo tuốt. Thế là em thành tay buôn có hạng trong giới “hàng nội địa”. Phục vụ phân phối một phần miền Bắc. Bố Khương vừa có người tình trẻ vừa có thu nhập to. Có điều, nghĩ lại cười chết được, từ giới buôn lậu cho tới quan chức ai cũng tưởng em là con bố Khương. Cứ thế được hơn một năm thì...

      -Đùng một phát !

      Lão cắt ngang cười kha khả. Cô chủ quán như bị chặn họng, nguýt lão một cái:

      -Anh này! Ờ, được tin mẹ bệnh nặng, em về quê ngoại.
     
      -Xin lỗi. Mình tưởng...

      -Dạ. Bác sĩ huyện nghi ngờ mẹ ung thư. Em tức tốc xin đưa mẹ vào Chợ Rẫy. Lúc này bé Tâm sắp vào lớp một. Nhanh thật. Thời gian nuôi mẹ bệnh, nghe lời bàn tính của một bà cô xa ở Biên Hòa. Nào là tương lai bé Tâm, nào là thành phố dễ thở hơn ở quê. Nhờ dành giụm được kha khá. Em mua một căn nhà cấp 4 còn dư, hồi đó phường 18 bên kia kìa, đất rẻ lắm. Bên này còn là khỉ hoang gà gáy, ruộng và hồ rau muống thôi. Khu nghĩa địa đầu đường này nè, là địa cứ xì ke ma túy, ít ai dám đi qua đây. Sửa sang nhà lại chút đỉnh, đưa mẹ về, nhờ người bà con ngoài quê vào phụ chăm sóc. Vài tháng sau mẹ qua đời trong cơn đau đớn. Đưa mẹ về nằm gần ba ở quê theo ước nguyện. Trở lại thành phố, nhiều đêm nằm quệt nước mắt, thấy cô đơn đến lạnh người. Ôm siết bé Tâm, chút hơi ấm cuối cùng an ủi. Bán hết rẫy đất, nhà cửa ở quê. Quyết định lập nghiệp ở đây, thành phố này. Trước khi vào làm ở xưởng may, em có ra tỉnh cảng nọ tìm bố Khương. Bất phước, ông ấy bị dính pháp luật đi tù. Ngồi tàu lửa về lại Saigon, qua ga xép cũ, nhìn quê ngoại trong đêm mờ trăng thấy mình khác lạ. Rất khác lạ. Tàu vùn vụt. Thời gian vùn vụt. Em vùn vụt bay ngoài không gian mênh mông. Lên cao nhẹ tênh rồi chúi xuống nặng chơ vơ. Buồn và khóc. Cho tới khi xuống ga vẫn chưa nhận ra mình.

       Lão bùi ngùi định nói gì đó, nhưng hơi bối rối nghe tiếng thở dài. Tiếng thở dài lôi quá khứ tuột ra những hình ảnh được nối liền nhau bằng những sợi chỉ nhỏ.
      
       -Để em kể tiếp. Vào công xưởng may làm được gần ba năm. Em nhảy ra ngoài, mua máy may, về quê tìm thợ, thật ra là mấy đứa bà con gần xa thất học đem vào chỉ dạy cho dần dần thành thợ may chuyên nghiệp. Vào đúng cái thời hàng may mặc xuất qua Đông Âu đến chóng mặt. Trước tiên là nhận từ các công ty về gia công. Khi đã thấy ổn định vững vàng, em tìm đối tác xuất thẳng qua cho họ. Dĩ nhiên em phải mua thêm đất, xây nhà xưởng mới làm nổi. Đó là thời xã hội như rắn đang lột da, không còn sợ mấy họng súng lăm le như trước kia nữa. Tuy chưa phải thoải mái lắm, nhưng thông thoáng hơn nhiều. Bắt đầu các công ty tư nhân mọc lên như nấm. Em cũng theo thời, mở công ty cho dễ làm ăn.

       Năm bé Tâm vừa vào cấp 3, dì nó, con An từ Mỹ về thăm. Bây giờ là Việt kiều yêu nước rồi! Về thăm quê, quỳ trên mộ ba mẹ nó quay quắt khóc như mưa như bão. Em dìu nó nức nở nghẹn lời. Nó định bảo lãnh cho con Tâm qua Mỹ học nhưng em từ chối. Nó đi tao ở với ai. Hay chị cùng cháu đi luôn. Em tìm cho một đực râu ria mà tựa đời. Khỏi! Đang làm nên ăn ra nghe mầy. Sau này hẵng hay.

       Chẳng có cái sau này nữa khi ông chồng em đây đi vào đời em. Cũng thuộc dòng hệ đảng viên nòi. Cha là liệt sĩ. Mẹ tái giá. Thích cầm cờ-lê mõ lết hơn cầm súng. Học trung cấp kỹ thuật, sau được đôn lên Cao đẳng ngành chế tạo máy gì đó. Ra trường xin vào Nam, được phân về một công ty ở miền Tây chuyên về máy móc nông nghiệp, sản xuất nông cụ. Gần sáu năm thì công ty vỡ nợ, giám đốc vào tù cùng kế toán trưởng. Nghe nói, máy móc gì nhập toàn đồ thải của Trung Quốc về chạy dăm ba bữa lại phải sửa lui sửa tới hoài, nông dân bực mình la lối. Mất việc. Mất luôn con vợ và đứa con trai hai tuổi. Chẳng biết nó bồng con theo ai. Về Saigon cầm cái bằng và thẻ Đảng xin việc, trôi qua vài công ty vì bất mãn do không đúng chuyên môn, vài nơi khác chỉ nghe hứa với hẹn. Chán, đốt thẻ Đảng, lang thang mấy năm trời với đủ thứ nghề: xe ôm, sửa xe, phụ xe. Chạy mánh, làm cò đổi ngoại tệ. Vượt biên mấy lần bất thành. Bắt được mối mấy ông tàu viễn dương, chuyển qua cung cấp ảnh sex, lịch sex, phim video sex. Tổ chức chiếu phim sex thu tiền, bị đi cải tạo gần nửa năm. Khi em gặp ổng là cùng làm ở công ty may. Ông ở đó trước em mấy năm, chuyên chỉnh sửa máy, rồi Trưởng phòng Kỹ thuật. Khi em ra làm riêng ông vẫn còn làm ở đó. Vì cần kỹ thuật máy, em đã dụ ổng về. Thấy ổng cần cù, đam mê máy móc lại giỏi tay nghề em mở một cửa hàng bán máy may các loại cho ổng quản lý. Chủ yếu máy cũ Nhật. Nói thật, giúp ổng chẳng qua vì lợi cho mình thôi chứ tình cảm thì “trớt quớt”. Nhiều lần ổng có nói bóng nói gió, em nghĩ nói đùa bỏ ngoài tai. Mà em, hình như chưa bao giờ nghĩ đến yêu đương, chẳng biết tình yêu nó ra làm sao. Con Tâm mấy bận rù rì được a mẹ, mẹ giờ sắp xế chiều rồi, lỡ mai này con lấy chồng xa ai lo cho mẹ, cũng cần người thủ thỉ đỡ buồn chứ. Sao được, mẹ có yêu thương gì ông ấy đâu. Mưa dầm thấm lâu mà mẹ, không tình thì nghĩa cũng được. Nằm gác tay lên trán nghĩ tủi tủi, sờ sợ cái cảnh lụ khụ nhìn bóng mình trên vách rồi sẽ lú lẫn... Thế là, cưới.  

       Em suýt bỏ mạng khi bị hư thai mấy lần. Bà bác sĩ bảo phải cắt bỏ buồng trứng. Điếc đẻ luôn. Chấm dứt niềm kiêu hãnh ngạo nghễ của phụ nữ. Từ đó sức khỏe yếu dần. Đi đứng xương cốt muốn nứt rạn. Ngồi lâu mỏi lưng khủng. Cũng là lúc Đông Âu dội hàng. Em sang bán hết nhà xưởng chỉ giữ lại cái cửa hiệu kinh doanh máy may thôi. Nay cũng cho vợ chồng con Tâm rồi. Về khu người Hoa trên này, đây là khu Hoa kiều vượt biên bị trả về, mua hai lô đất. Một cái ở, cái còn lại cho thuê. Số mình bị trời hành hay sao ấy. Ăn không ngồi chơi là sinh đủ bệnh. Năm ngoái sang lại quán này bán cho đỡ buồn, thấy khỏe ra.

      -Chồng em ít thấy lên quán.

      -Ổng đi suốt ngày. Giờ theo mấy ông bạn làm cò đất.

      -Ổn không ?

      -Không hiểu sao em luôn thấy trong mình có gì đó hụt hẫng, đục khóet thành một góc trống vô hình tự hồi nào. Cảm nhận như nó đang lớn dần. Một lỗ trống toang hoác như cảm giác khi mất buồng trứng vậy.

     -Có lẽ em làm việc quá sức.

     Lão nói vậy nhưng không nghĩ vậy. Một câu nói mà lão dư hiểu chẳng có tác dụng gì ngoài cái lịch sự phải đối đáp. Cái lắc đầu của cô chủ quán cũng thế.


***

     -Vẫn như cũ hả bác !

     -Vâng.

     -Tưởng anh đi đâu mất tiêu rồi chứ.

     -Lâu lâu đi đổi gió thôi mà.

     -Chắc đổi luôn quá.

     -Sao ?

     -Người ta muốn tăng tiền nhà. Ý họ không muốn cho thuê nữa.

     -Hết hợp đồng à ?

     -Dạ, chủ cũ hợp đồng ba năm. Hơn tháng nữa là hết. Chắc thấy em bán được nên chủ nhà muốn lấy lại bán.

     -Thời này nó vậy mà.

     -Buồn thật.
    
     Bên kia đường căn hộ đang xây ngày một cao thêm. Lão nhìn chếch lên mái bạt của quán, lấp ló một viền mây mỏng manh. 


Saigon 28/11/2017