3- CÔ CHỦ
QUÁN
Lão
thích tới quán cà phê này vì cà phê ở đây sạch. Thật sự sạch. Không pha trộn
thêm gì cái thứ bột ở chợ Kim Biên. Mỗi lần cô chủ bỏ hạt cà phê vào máy xay
nghe như tiếng suối róc rách, mùi núi rừng phảng phất, hương của đất tỏa ra khắp
quán. Những hạt nhẹ bay vướng vào mắt làm cho đôi mắt nâu thêm, một màu nâu sắc
lẻm pha những tia vàng phát ra ánh nhìn huyền bí như mắt mèo. Với nụ cười khá uể
oải, một chút gượng ép xoáy trên hai lúm đồng tiền một nét duyên mơ hồ lộ ra
hàm răng trắng đều mà lão nghĩ phải có sự can thiệp của nha sĩ. Nếu không có lớp
phấn mịn, chắc chắn lớp da mặt ấy khó giấu hết những vết thời gian in lằn.
Không biết lớp sần sùi, những đường nhăn ấy chứa cái gì: sự tần tảo, đau khổ, từng
trải, mê đắm...?
-...Anh
biết đó, hồi ấy em có biệt danh là “Beo Cái”.
-Ghê nhỉ
!
-Đùng một
phát ! Bỏ học. Mười bốn tuổi phải nhảy tàu lửa, trốn vé, lao theo mấy bao mì
lát phụ mẹ đi buôn rồi. Thời đó, như anh biết, đem được nông sản ra khỏi địa
phương là một vấn đề. Trốn chui trốn nhủi như chuột. Chỉ dám đi tàu đêm. Khi
nào cũng có tiền trạm thăm dò trước. Cộ bò thường phi như ngựa, lỡ gặp mấy họng
súng chặn lại vẫn quất đít bò phang tới luôn. Ga thuộc xã khác, dù vậy hàng hóa
phải đem giấu vào bụi chờ tàu tới vì ở đâu cũng đầy “ông kẹ”. Lên tàu lại là một
vấn đề, nhưng dễ giải quyết hơn. Có khi phải nhảy trốn từ mái toa này qua mái
toa nọ, thanh ngang những cầu sắt thời Pháp thuộc như lưỡi kiếm một ác thần vụt
tới tấp, cố ép mình nằm rạp xuống hết cỡ, tưởng cái mặt bị cắt phẳng, thẩn thể
mỏng lép như miếng giấy chao đảo vào địa ngục vô diện. Cứ thế, mười sáu tuổi đã
mang danh “Beo Cái”, nhanh và hung tợn dù tuổi nhỏ nhất băng “Beo”. Lúc này mẹ ở
nhà lo nương rẫy. Bé An còn đi học. Ba vừa mất vì chứng sốt rét ác tính, bị nhiễm
khi ở trại cải tạo, tái phát khi về quê vợ phá rừng làm rẫy. Dân công chức bàn
giấy mà, chịu sao nổi gánh đá vác cây. Nhảy tàu thêm một năm nữa thì em đổi nghề.
Thú thật,
sự trở chứng của tuổi dậy thì đi qua em sao nó như gió thoảng. Chả biết làm thẹn
làm duyên làm dáng cái mốc xì gì cả. Mộng mơ là thứ xa xỉ và vô bổ. Chỉ nghĩ tới:
tiền và tiền, là vì sợ quá sợ: đói và đói. Có động lòng cảm xúc, não lại quy ra
những con số hoặc đôi khi chỉ tự vệ, chung quy là quần quật bảo vệ miếng ăn. Nước
mắt có chảy ra cùng là lúc những lời chửi rủa mắng nhiếc uất ức tuôn xả. Khi gặp
Thìn em cũng chả chút cảm xúc gì. Một tay lái xe từ chiến trường K về. Nhờ cái
mác bộ đội ấy, được vào lái xe hàng cho một công ty nhà nước ở Saigon, lại ranh
mảnh khôn khéo nên mấy trạm kiểm soát ít khi làm khó dễ anh ta. Em ăn theo đi
buôn đường dài. Đa phần là mỹ phẩm Thái Lan nhập lậu. Dong duỗi Nam Bắc em giàu
lên không ngờ. Và cũng không ngờ mình có chữa lúc nào chẳng hay. Đấy, con bé
Tâm thường ẳm con nó lên quán này đấy. Thuê phòng trọ ở Saigon, một mình vào Từ
Dũ đẻ. Ba nó, gã Thìn ấy, vất cho đống áo quần trẻ sơ sinh rồi mất tăm. Nghe
nói vượt biên thì phải. Sau này con An, em gái em qua Mỹ có dò la tin tức nhưng
vẫn biệt tăm. Ối dà ! tới đâu rồi ha ? À, mẹ em chẳng biết gì ráo cho đến khi
con Tâm gần một tuổi em bồng về quê. Ngỡ ngàng, thở than rồi cũng huề. Cái chuyện
con không cha, xóm làng quê em bắt đầu dần quen. Dỡ dang như em thì có mà như nấm
sau cơn mưa ! Thoát nghèo, không phải. Thoát chén khoai củ mì nghẹn họng, muốn
thấy được hột cơm thì phải nối đuôi nhau ra khỏi làng, bươn chải đường dài đường
ngắn, lợi dụng nhau mà kiếm sống. Phụ nữ...ôi, Thượng đế năm bờ oăn!
Có chút
vốn, em làm lại cái nhà mới khang trang hơn. Lấy chút ít bánh kẹo, xà phòng, đường
muối, tạp nhạp thứ tiêu dùng từ chợ huyện về cho mẹ bán. Lời lãi chả bao, nhưng
cốt để mẹ ở nhà. Rẫy nương tới vụ thì thuê người làm. Mua cho con An chiếc xe đạp
về huyện học cấp 3. Lúc này cuộc sống có phần dễ thở, một thứ dễ thở như gió vù
qua lỗ mọt của tường sắt gỉ. Cộ bò chất đầy nông sản ra ga ít cần tiền trạm.
Sân ga bớt hoạt náo hơn, có vẻ thưa dần con buôn lên xuống. Đùng một phát ! Cả
làng quê em bỗng chộn rộn khi ở huyện mọc lên nhà máy đường. Thế là, theo chủ
trương chuyển đổi cây trồng, nhà nhà cải tạo đất canh tác từ mì qua mía. Ở làng
mọc lên hai cái che mía. Một cái do bò kéo, một cái chạy bằng máy nổ của Hợp
tác Xã. Em nhanh chóng thu mua đường nước, rồi thu mua mía vườn móc nối với
nhân viên nhà máy đường kiếm chênh lệch. Được vài mùa thì teo.
-Teo là
thế nào?
-Thì mất
mùa. Khô hạn, thất thu. Nhà máy kêu than, tạm đóng cửa. Em, máu “Beo Cái” tham
lam bung tiền mua vườn từ khi người ta mới xuống giống. Lỗ sặc sừ. Bỏ nghề, bỏ
làng theo bà chị họ ra tỉnh mở quán cà phê.
Thật ra định
nghe lời bà chị họ vào làm một công ty dệt nhà nước. Chồng chị ấy là trưởng
phòng kinh doanh thì phải, em nhớ mang máng thế, bà chị là văn thư. Được cấp một
căn hộ ở khu tập thể nhà máy. Khu này ở trung tâm thành phố tỉnh. Hằng ngày có
xe đưa rước ra nhà máy ở ngoại ô và chiều đưa về. Căn hộ gia đình chị ở căn
bìa, phía ngoài là khoảng trống khá rộng kéo dài ra đường lớn. Bà chị họ khi ở
cữ đứa đầu, đã tận dụng thời gian rỗi dựng lên mấy tấm tôn bán đồ lặt vặt. Ngõ
hẻm này thông thương giữa hai đường phố lớn, nên người qua lại khá đông. Ý nghĩ
bán nước giải khát nhảy tưng trong đầu em, tuy cái máu bươn chải có phần héo
hon trong lòng sau vụ mía, nhưng chữ tiền làm em lại háo hức. Được anh chị họ đồng
ý tùy nghi sử dụng, em bòn hết vốn liếng còn sót lại đầu tư vào cái quán. Nói
thiệt với ông anh chứ, biết mẹ gì đâu cà với phê. Thời gian làm quán, mẫu mã
thiết kế, bàn ghế cũng như thợ thầy do ông anh họ lo hết, em lao vào mấy quán
cà phê khắp thành phố để học lõm. Sáng quán này, chiều quán nọ, tối quán kia riết
ghiền cà phê luôn. Mà, phải rồi, cà phê có chất thông minh đó anh.
Lão phì
cười đến phun nước miếng. Cô chủ dễ thương như một đứa trẻ.
-Thiệt
mà. Em thấy mình biết động não hơn. Có khi ngồi quán nhìn cái này cái nọ mà suy
nghĩ về cuộc đời nè. Mấy người ngồi trước ly cà phê thấy họ vô...vô gì ta, à vô
tư. Em nghe nói mấy ông thi sĩ ghiền cà phê lắm, phải không anh ?
-Không
biết nữa. Cũng có thể họ ghiền một cái gì đó.
-À ha ?
Để em kể tiếp. Thời gian đó, con An ra tỉnh học Cao Đẳng Sư Phạm. Phải thuê nhà
cho hai chị em. Mẹ muốn giữ con Tâm lại để mẹ bớt cô quạnh. Em đồng ý. Căn hộ
gia đình bà chị họ có một gác lững nhưng cũng rất bất tiện chuyện sinh hoạt vợ
chồng người ta. Vài tháng sau, con An biệt tích. Thật ra chuyện nó vượt biên
hai chị em đã suy tính rất kỹ, không cho ai biết kể cả mẹ. Trước đêm nó theo thằng
bồ ở xóm chài đi lưới, hai chị em ôm nhau khóc như chưa từng được khóc. Vừa lo
sợ vừa hy vọng. Chưa bao giờ em thao thức suy nghĩ về cảnh đời cay đắng thế. Về
thăm quê, mẹ hỏi An sao lâu không về. Dạ, nó đi thực tập xa lắm mẹ. Dần dà mẹ hồ
nghi có chuyện gì. Em cố lãng tránh. Đùng một phát ! Thư nó từ Mỹ gởi về. Mẹ
con ôm nhau khóc sướng chi lạ ! Mẹ đấm thụi thụi vào lưng em tổ cha bây, tổ cha
bây. Hai mẹ con cười vang trong nước mắt giàn giụa. Có lẽ suốt cuộc đời mình,
đây là lần duy nhất em cảm nhận được sự ấm áp của tình yêu thương thật sự.
Phải,
ngay cả bố Khương, không thể gọi là tình yêu được. Mặc dù Khương đã trung niên,
từng là thủ trưởng của chồng chị họ em. Sau này chuyển qua Hải quan. Gọi bố
Khương vì anh chị em ở khu tập thể gọi vậy. Ông ta là khách thường nhật của
quán. Một bữa nọ, ông ấy mang tới một cái bảng, tầm 50x80, rồi loay hoay treo
dưới mái tôn ngoài, giữa trung tâm quán. Từ đó quán có tên “Cà phê Dệt”. Cha mẹ
ơi, tên gì kì cục ! Vậy mà “Cà phê Dệt” lại đông nườm nượp. Có thể bố Khương
còn chút tiếc nuối cơ quan cũ. Cũng có thể vì ý gì đó, chẳng hiểu. Những buổi
đông khách, như Chủ Nhật, em lo không xuể từ pha chế, tính tiền, bưng bê đủ thứ
chuyện đổ mồ hôi, phải nhờ mấy cô công nhân trẻ phụ việc. Trả thù lao xứng
đáng. Ai cũng vui vẻ. Quán cũng là chỗ nhậu đêm của ông anh họ và bạn bè anh ấy.
Một sáng Chủ Nhật nọ, bố Khương bảo em chiều nghỉ bán. Hôm nay tiệc đưa tiễn.
Tuần tới bố chuyển công tác ra cảng tỉnh khác rồi. Hồi đó bia bọt thuộc loại hiếm,
thị trường đa phần là bia lên men. Nhưng cuộc chia tay đó bố Khương cho bày mỗi
bàn mỗi chai rượu ngoại thứ thiệt. Mấy tay đệ tử dự phòng thêm mấy chai nữa.
Đêm ấy bố Khương gục ngay tại bàn khi chỉ còn vài người kề cà tới khuya. Đệ tử
dìu chở vể không chịu, bảo ở lại Cà phê Dệt mà thôi. Em thật lúng túng. Nhờ ai
đó dìu ông ấy lên chiếc ghế bố. Nghe tiếng ngáy như bô xe ai cũng cười. Sau khi
phụ dọn dẹp, mọi người về hết. Không lẽ để bố Khương một mình ở quán. Bà chị họ
ném cho chiếc chiếu và tấm màn hoa rồi khất khưởng về ngủ. Lấy tấm màn đắp cho
bố Khương, trải chiếc chiếu ở gần quầy nằm xuống, đầu hơi nhưng nhức do mấy ly
rượu. Ngủ thiếp lúc nào không hay. Đêm ấy hình như mơ mình có cánh bay bay thì
phải. Đùng một phát! Cánh đập vào ngọn núi. Nghe đau thốn. Choàng tỉnh dậy
nhưng không nhúc nhích nổi. Bố Khương đang đè mạnh trên mình. Thế là xong. Nằm
đơ người chẳng biết muốn khóc hay cười nữa.
Khoảng
vài tháng sau, một chiếc Ku-oát phanh “roét” ngay trước cửa quán. Bố Khương nhảy
phóc ra. Một người đàn ông trẻ khệ nệ ôm một chiếc tivi vào quán. Để trên quầy
đi, bố Khương nhìn em nói tiếp, hàng nội địa Nhật đó. Suốt cả buổi nỉ năn, em vẫn
từ chối không theo ông ta ra tỉnh mới. Nhìn cái tivi em chẳng vui vẻ gì. Thời
đó, có tivi dù đen trắng là oách lắm. Với em, chỉ tổ mệt thêm vì khách đêm thường
ngồi nán hết chương trình.
Ông anh
này, em nói giọng Bắc lai tứ phương tám miền đây anh nghe rõ không ?
-Bắc tổng
hợp, quá hay !
-Rõ hiểu
là tốt rồi. “Quá hay” là nịnh dẽo, tính sau. Cao hứng, nhiều khi quay lại cái
chửi thề chửi tục ông anh bỏ quá cho nhe.
-Vậy mới
vui, mới thực lòng.
-Em nhớ
khoảng tháng tư năm sau. Một ngày nắng như thiêu. Chiếc Ku-oát lại “roẹt” trước
cửa quán. Lần này là một đầu video, một tivi màu nội địa, một chục băng video.
Chẳng bao lâu sau, em sang lại cho bà chị họ hết. Giã từ Cà phê Dệt, em lên đường
theo tiếng gọi...hàng nội địa Nhật. Chơi bạo giàu nhanh. Hàng điện tử phế thải
từ Nhật nhập về cảng có bố Khương lo. Xe quân vận chở hàng quốc phòng bố Khương
cũng lo tuốt. Thế là em thành tay buôn có hạng trong giới “hàng nội địa”. Phục vụ phân phối một phần miền Bắc. Bố
Khương vừa có người tình trẻ vừa có thu nhập to. Có điều, nghĩ lại cười chết được,
từ giới buôn lậu cho tới quan chức ai cũng tưởng em là con bố Khương. Cứ thế được
hơn một năm thì...
-Đùng một
phát !
Lão cắt
ngang cười kha khả. Cô chủ quán như bị chặn họng, nguýt lão một cái:
-Anh
này! Ờ, được tin mẹ bệnh nặng, em về quê ngoại.
-Xin lỗi.
Mình tưởng...
-Dạ. Bác
sĩ huyện nghi ngờ mẹ ung thư. Em tức tốc xin đưa mẹ vào Chợ Rẫy. Lúc này bé Tâm
sắp vào lớp một. Nhanh thật. Thời gian nuôi mẹ bệnh, nghe lời bàn tính của một
bà cô xa ở Biên Hòa. Nào là tương lai bé Tâm, nào là thành phố dễ thở hơn ở
quê. Nhờ dành giụm được kha khá. Em mua một căn nhà cấp 4 còn dư, hồi đó phường
18 bên kia kìa, đất rẻ lắm. Bên này còn là khỉ
hoang gà gáy, ruộng và hồ rau muống thôi. Khu nghĩa địa đầu đường này nè,
là địa cứ xì ke ma túy, ít ai dám đi qua đây. Sửa sang nhà lại chút đỉnh, đưa mẹ
về, nhờ người bà con ngoài quê vào phụ chăm sóc. Vài tháng sau mẹ qua đời trong
cơn đau đớn. Đưa mẹ về nằm gần ba ở quê theo ước nguyện. Trở lại thành phố, nhiều
đêm nằm quệt nước mắt, thấy cô đơn đến lạnh người. Ôm siết bé Tâm, chút hơi ấm
cuối cùng an ủi. Bán hết rẫy đất, nhà cửa ở quê. Quyết định lập nghiệp ở đây,
thành phố này. Trước khi vào làm ở xưởng may, em có ra tỉnh cảng nọ tìm bố
Khương. Bất phước, ông ấy bị dính pháp luật đi tù. Ngồi tàu lửa về lại Saigon,
qua ga xép cũ, nhìn quê ngoại trong đêm mờ trăng thấy mình khác lạ. Rất khác lạ.
Tàu vùn vụt. Thời gian vùn vụt. Em vùn vụt bay ngoài không gian mênh mông. Lên
cao nhẹ tênh rồi chúi xuống nặng chơ vơ. Buồn và khóc. Cho tới khi xuống ga vẫn
chưa nhận ra mình.
Lão bùi
ngùi định nói gì đó, nhưng hơi bối rối nghe tiếng thở dài. Tiếng thở dài lôi
quá khứ tuột ra những hình ảnh được nối liền nhau bằng những sợi chỉ nhỏ.
-Để em
kể tiếp. Vào công xưởng may làm được gần ba năm. Em nhảy ra ngoài, mua máy may,
về quê tìm thợ, thật ra là mấy đứa bà con gần xa thất học đem vào chỉ dạy cho dần
dần thành thợ may chuyên nghiệp. Vào đúng cái thời hàng may mặc xuất qua Đông
Âu đến chóng mặt. Trước tiên là nhận từ các công ty về gia công. Khi đã thấy ổn
định vững vàng, em tìm đối tác xuất thẳng qua cho họ. Dĩ nhiên em phải mua thêm
đất, xây nhà xưởng mới làm nổi. Đó là thời xã hội như rắn đang lột da, không
còn sợ mấy họng súng lăm le như trước kia nữa. Tuy chưa phải thoải mái lắm,
nhưng thông thoáng hơn nhiều. Bắt đầu các công ty tư nhân mọc lên như nấm. Em
cũng theo thời, mở công ty cho dễ làm ăn.
Năm bé
Tâm vừa vào cấp 3, dì nó, con An từ Mỹ về thăm. Bây giờ là Việt kiều yêu nước rồi!
Về thăm quê, quỳ trên mộ ba mẹ nó quay quắt khóc như mưa như bão. Em dìu nó nức
nở nghẹn lời. Nó định bảo lãnh cho con Tâm qua Mỹ học nhưng em từ chối. Nó đi
tao ở với ai. Hay chị cùng cháu đi luôn. Em tìm cho một đực râu ria mà tựa đời.
Khỏi! Đang làm nên ăn ra nghe mầy. Sau này hẵng hay.
Chẳng
có cái sau này nữa khi ông chồng em đây đi vào đời em. Cũng thuộc dòng hệ đảng
viên nòi. Cha là liệt sĩ. Mẹ tái giá. Thích cầm cờ-lê mõ lết hơn cầm súng. Học
trung cấp kỹ thuật, sau được đôn lên Cao đẳng ngành chế tạo máy gì đó. Ra trường
xin vào Nam, được phân về một công ty ở miền Tây chuyên về máy móc nông nghiệp,
sản xuất nông cụ. Gần sáu năm thì công ty vỡ nợ, giám đốc vào tù cùng kế toán
trưởng. Nghe nói, máy móc gì nhập toàn đồ thải của Trung Quốc về chạy dăm ba bữa
lại phải sửa lui sửa tới hoài, nông dân bực mình la lối. Mất việc. Mất luôn con
vợ và đứa con trai hai tuổi. Chẳng biết nó bồng con theo ai. Về Saigon cầm cái
bằng và thẻ Đảng xin việc, trôi qua vài công ty vì bất mãn do không đúng chuyên
môn, vài nơi khác chỉ nghe hứa với hẹn. Chán, đốt thẻ Đảng, lang thang mấy năm
trời với đủ thứ nghề: xe ôm, sửa xe, phụ xe. Chạy mánh, làm cò đổi ngoại tệ. Vượt
biên mấy lần bất thành. Bắt được mối mấy ông tàu viễn dương, chuyển qua cung cấp
ảnh sex, lịch sex, phim video sex. Tổ chức chiếu phim sex thu tiền, bị đi cải tạo
gần nửa năm. Khi em gặp ổng là cùng làm ở công ty may. Ông ở đó trước em mấy
năm, chuyên chỉnh sửa máy, rồi Trưởng phòng Kỹ thuật. Khi em ra làm riêng ông vẫn
còn làm ở đó. Vì cần kỹ thuật máy, em đã dụ ổng về. Thấy ổng cần cù, đam mê máy
móc lại giỏi tay nghề em mở một cửa hàng bán máy may các loại cho ổng quản lý.
Chủ yếu máy cũ Nhật. Nói thật, giúp ổng chẳng qua vì lợi cho mình thôi chứ tình
cảm thì “trớt quớt”. Nhiều lần ổng có nói bóng nói gió, em nghĩ nói đùa bỏ
ngoài tai. Mà em, hình như chưa bao giờ nghĩ đến yêu đương, chẳng biết tình yêu
nó ra làm sao. Con Tâm mấy bận rù rì được a mẹ, mẹ giờ sắp xế chiều rồi, lỡ mai
này con lấy chồng xa ai lo cho mẹ, cũng cần người thủ thỉ đỡ buồn chứ. Sao được,
mẹ có yêu thương gì ông ấy đâu. Mưa dầm thấm lâu mà mẹ, không tình thì nghĩa
cũng được. Nằm gác tay lên trán nghĩ tủi tủi, sờ sợ cái cảnh lụ khụ nhìn bóng
mình trên vách rồi sẽ lú lẫn... Thế là, cưới.
Em suýt
bỏ mạng khi bị hư thai mấy lần. Bà bác sĩ bảo phải cắt bỏ buồng trứng. Điếc đẻ
luôn. Chấm dứt niềm kiêu hãnh ngạo nghễ của phụ nữ. Từ đó sức khỏe yếu dần. Đi
đứng xương cốt muốn nứt rạn. Ngồi lâu mỏi lưng khủng. Cũng là lúc Đông Âu dội
hàng. Em sang bán hết nhà xưởng chỉ giữ lại cái cửa hiệu kinh doanh máy may
thôi. Nay cũng cho vợ chồng con Tâm rồi. Về khu người Hoa trên này, đây là khu
Hoa kiều vượt biên bị trả về, mua hai lô đất. Một cái ở, cái còn lại cho thuê.
Số mình bị trời hành hay sao ấy. Ăn không ngồi chơi là sinh đủ bệnh. Năm ngoái
sang lại quán này bán cho đỡ buồn, thấy khỏe ra.
-Chồng
em ít thấy lên quán.
-Ổng đi
suốt ngày. Giờ theo mấy ông bạn làm cò đất.
-Ổn
không ?
-Không
hiểu sao em luôn thấy trong mình có gì đó hụt hẫng, đục khóet thành một góc trống
vô hình tự hồi nào. Cảm nhận như nó đang lớn dần. Một lỗ trống toang hoác như cảm
giác khi mất buồng trứng vậy.
-Có lẽ em
làm việc quá sức.
Lão nói vậy
nhưng không nghĩ vậy. Một câu nói mà lão dư hiểu chẳng có tác dụng gì ngoài cái
lịch sự phải đối đáp. Cái lắc đầu của cô chủ quán cũng thế.
***
-Vẫn như
cũ hả bác !
-Vâng.
-Tưởng
anh đi đâu mất tiêu rồi chứ.
-Lâu lâu
đi đổi gió thôi mà.
-Chắc đổi
luôn quá.
-Sao ?
-Người ta
muốn tăng tiền nhà. Ý họ không muốn cho thuê nữa.
-Hết hợp
đồng à ?
-Dạ, chủ
cũ hợp đồng ba năm. Hơn tháng nữa là hết. Chắc thấy em bán được nên chủ nhà muốn
lấy lại bán.
-Thời này
nó vậy mà.
-Buồn thật.
Bên kia
đường căn hộ đang xây ngày một cao thêm. Lão nhìn chếch lên mái bạt của quán, lấp
ló một viền mây mỏng manh.
Saigon
28/11/2017